Kỹ thuật nuôi cá chẽm trong lồng
Chọn ví trí nuôi lồng
Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của nghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính: nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng; nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể...; và nhóm các yếu tố về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế - xã hội, luật lệ...
Trong nuôi cá lồng, do chất lượng nước không thể kiểm soát được như trong các thủy vực ao, đầm mà tùy thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, vì thế chọn lựa vị trí thích hợp sẽ có ảnh hưởng quyết định đến sự thành công của nghề nuôi. Thông thường, tiêu chuẩn lựa chọn vị trí nuôi được phân thành 3 nhóm yếu tố chính: nhóm các yếu tố liên quan đến sự sống của cá nuôi như nhiệt độ, độ mặn, mức độ nhiễm bẩn, vật chất lơ lửng, nở hoa của tảo, sinh vật gây bệnh trao đổi nước, dòng chảy, khả năng làm bẩn lồng; nhóm các yếu tố về độ sâu, chất đáy, giá thể...; và nhóm các yếu tố về điều kiện thành lập trại nuôi như phương tiện, an ninh, kinh tế - xã hội, luật lệ...
Một vị trí tốt cho việc nuôi lồng cá biển là cần thiết có:
• Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m. Ít sóng to, gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1 m/giây) nếu không sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.
• Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp từ 0,2-0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.
• Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6 mg/lít, nhiệt độ 25- 300C, độ mặn từ 27-33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi công nghiệp, nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.
• Độ sâu phải bảo đảm đáy lồng cách đáy biển ít nhất 2-3m. Ít sóng to, gió lớn (tránh nơi sóng > 2 m) và tốc độ dòng chảy nhỏ (dưới 1 m/giây) nếu không sẽ làm hư hỏng lồng, trôi thức ăn, làm cho cá hoạt động yếu gây chậm lớn và sinh bệnh.
• Tránh nơi nước chảy quá yếu hay nước đứng (tốc độ chảy thích hợp từ 0,2-0,6 m/giây) mà có thể dẫn đến cá chết do thiếu oxy, thức ăn thừa, mùn bã cũng tích lũy ở đáy lồng gây ô nhiễm.
• Đảm bảo hàm lượng oxy từ 4-6 mg/lít, nhiệt độ 25- 300C, độ mặn từ 27-33%o. Cần tránh xa những nơi gây ô nhiễm dầu, ô nhiễm chất thi công nghiệp, nước thải sinh hoạt, và tàu bè. Nơi có thể xảy ra hồng triều.
Thiết kế và xây dựng lồng Thông thường một dàn lồng có kích cỡ 6 x 6 x 3 m và được thiết kế thành 4 ô để làm thành 4 lồng riêng biệt như vậy mỗi lồng sẽ có kích cỡ 3 x 3 x 3 m. Như thế sẽ thuận lợi cho việc thả giống được đồng loạt cho từng lồng, đồng thời với một lồng không nuôi cá sẽ dành để thay lồng khi xử lý bệnh cá hay xử lý rong to bẩn đóng trên lồng.
Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,... để làm lồng như nhiều nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung trên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15 cm. Khung đáy lồng dùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ. Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ cỡ cá 1-2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá 5-10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá >25 cm dùng mắc lưới 4 cm.
Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gổ của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy hay không. Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi.
Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.
Mặc dầu có thể sử dụng các vật liệu rẻ như tre, gỗ,... để làm lồng như nhiều nơi trước đây, song sẽ dễ dàng bị hư hỏng. Vì thế, chỉ nên làm khung trên lồng bằng gỗ với kích cỡ thông thường loại 8x15 cm. Khung đáy lồng dùng bằng ống nước đường kính 15/21 và được mạ kẽm để tăng tuổi thọ. Lưới lồng tốt nhất nên là PE không gút. Kích thước mắc lưới có thể thay đổi tùy vào kích cỡ cá nuôi. Ví dụ cỡ cá 1-2 cm dùng mắc lưới 0,5 cm, cở cá 5-10 cm dùng mắc lưới 1 cm; cở cá 20-30 cm dùng mắc lưới 2 cm và cở cá >25 cm dùng mắc lưới 4 cm.
Phao có thể là thùng nhựa (1x 0,6m) hay thùng phuy để nâng khung gổ của lồng. Số lượng phao có thể thay đổi tùy theo lồng có nhà trên đấy hay không. Lồng đưọc cố định bằng neo ở 4 gốc để tránh bị nước cuốn trôi.
Ngoài ra ở các vùng cạn ven bờ có thể phát triển kiểu lồng cố định bằng cách dùng lưới và cọc gỗ bao quanh khu nuôi.
Kỹ thuật nuôi và quản lý lồng
Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6-8 giờ) hoặc buổi tối (8-10 giờ) khi nhiệt độ thấp.
Mật độ thả cá thường từ 40-50 con/m3. Sau 2-3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 150-200g, lúc này giảm mật độ còn 10-20 con/m3. Nên dành một số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông qua việc chuyển đổi lồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.
Trước khi thả cá giống vào lồng, cần phải thuần hóa để cá thích nghi với nhiệt độ và nồng độ muối trong lồng. Cá giống nên phân cỡ theo nhóm và nuôi trong những lồng riêng biệt. Thả cá vào lúc sáng sớm (6-8 giờ) hoặc buổi tối (8-10 giờ) khi nhiệt độ thấp.
Mật độ thả cá thường từ 40-50 con/m3. Sau 2-3 tháng nuôi cá đạt trọng lượng 150-200g, lúc này giảm mật độ còn 10-20 con/m3. Nên dành một số bè trống, để sử dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc nước do vi sinh vật bám. Thông qua việc chuyển đổi lồng giúp phân cỡ và điều chỉnh mật độ nuôi.
Thức ăn và cách cho ăn Thức ăn hiện nay là vấn đề lớn mà nghề nuôi cá chẽm đương phải đương đầu. Hiên tại, cá tạp là nguồn thức ăn được dùng duy nhất cho cá chẽm. Cá tạp được băm nhỏ cho ăn hai lần mỗi ngày vào buổi sáng (8 giờ), buổi chiều (5 giờ) với tỷ lệ 10% trọng lượng cá trong 2 tháng đầu. Sau 2 tháng chỉ cho ăn một lần/ngày vào buổi chiều với tỷ lệ 5% trọng lượng cá. Chỉ cho cá ăn khi cá bơi lội gần mặt nước.
Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn còn cao mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu làm thức ăn có thể là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%.
Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩu phần ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loại thức ăn này vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn như sau:
Do nguồn cá tạp ở một số nước hiếm và đắt, cám gạo và tấm được dùng trộn thêm để giảm lượng cá tạp sử dụng. Tuy nhiên gíá thành thức ăn vẫn còn cao mặc dù áp dụng phương pháp hạ giá này. Phối hợp nguyên liệu làm thức ăn có thể là cá tạp 70% và cám hoặc tấm 30%.
Một bước phát triển mới trong thời gian gần trong việc cải tiến khẩu phần ăn của cá chẽm là sử dụng thức ăn ẩm. Tuy nhiên việc sử dụng loại thức ăn này vẫn còn trong giai đoạn thí nghiệm. Thành phần thức ăn như sau:
Phân phối và khẩu phần thức ăn ẩm.
Thành phần | Phần trăm (%) |
Bột cá Cám Bột đậu nành Bột bắp Bột lá Dầu mực (hoặc dầu cá) Tinh bột khuấy hồ Hỗn hợp Vitamin | 35 20 15 10 3 7 8 2 |
Quản lý lồng cá Cần phải thường xuyên theo dõi lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể bị phá hại bởi các động vật thủy sinh như cua, rái cá,... Nếu lồng bị hư hỏng phải lập tức sửa chữa hoặc thay mới.
Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng phù sa. Vấn đề này không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho các vi sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thễ bám vào,... những vật này có thể bám kín lưới làm giảm sự trao đổi nước có thể gây "sốc" cho cá do oxy hòa tan thấp đồng thời tích tụ những chất cặn bã. Chính vì thế sẽ ảnh hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.
Cho đến việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là phưong pháp hiệu quả vá rẻ nhất. Ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng lồng lưới luân phiên nhau.
Ngoài quá trình bám sinh học, lưới lồng còn là nơi dễ bị kín và lắng đọng phù sa. Vấn đề này không thể tránh khỏi vì lưới có bề mặt thuận lợi cho các vi sinh vật lưỡng thê, giun nhiều tơ, động vật chân tơ và nhuyễn thễ bám vào,... những vật này có thể bám kín lưới làm giảm sự trao đổi nước có thể gây "sốc" cho cá do oxy hòa tan thấp đồng thời tích tụ những chất cặn bã. Chính vì thế sẽ ảnh hưởng đến tính ăn và sức tăng trưởng của cá.
Cho đến việc vệ sinh lưới theo phương pháp cơ học vẫn là phưong pháp hiệu quả vá rẻ nhất. Ở những vùng có nhiều sinh vật gây bám cần sử dụng lồng lưới luân phiên nhau.
Thu Hằng
Tags:
Kỹ Thuật
Một số điểm lưu ý phòng trị bệnh khi nuôi lươn
Ngày nay, nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt đã và đang trở thành một nghề sản xuất mang lại hiệu qủa kinh tế cao, đặc biệt nuôi lươn đang là đối tượng nuôi khá phổ biến trong mùa nước nổi này. Tuy nhiên, ngoài các biện pháp kỹ thuật thì những vấn đề xung quanh môi trường nước để nuôi lươn luôn là mối quan tâm của bà con nông dân. Bởi vì nếu môi trường nước không tốt sẽ là điều kiện thuận lợi nẩy sinh dịch bệnh cho lươn nuôi.
Mới đây Cty Liên doanh Bio Pharmachemie đã cử cán bộ kỹ thuật đến vùng nuôi lươn của tỉnh An Giang để tư vấn về kỹ thuật giúp bà con áp dụng mô hình nuôi lươn thành công. Gặp gỡ trao đổi với bà con nông dân, cán bộ kỹ thuật đã giải đáp những vấn đề thắc mắc của bà con xung quanh về cách phòng và trị bệnh đối với mô hình nuôi lươn hiện nay. Anh Nguyễn Văn Được, ngụ ở ấp Vĩnh Phúc xã Vĩnh Hanh cho biết năm nay gia đình anh nuôi đến 8 bồn và thả trên 300 ký lươn giống, không biết nguyên nhân nào khi thả cùng 1 loại giống mà có bồn lươn bị hao nhiều, nhưng có bồn thì không ?
Anh Huỳnh Văn Nguyên, cũng ngụ ở ấp Vĩnh Phúc thì thả mật độ dày hơn với 7 bồn anh cũng thả đến trên 300 ký lươn giống. Tháng đầu tiên lươn phát triển tốt, nhưng bước sang tháng thứ 2 thì lươn bắt đầu chết dần nên tỷ lệ hao khá nhiều, mặc dù anh đã áp dụng nhiều cách hướng dẫn của những người nuôi lươn có kinh nghiệm để khắc phục nhưng xem ra kết quả chưa thành công.
Những nguyên nhân phát sinh bệnh trên lươn đó là do nguồn giống ban đầu không tốt, do trong quá trình vận chuyển bị xây xát, hoặc do nhiệt độ thay đổi đột ngột và môi trường nước ô nhiễm khi quá trình chăm sóc không tốt, nên nguồn nước nhiễm bẩn, các mầm bệnh và ký sinh trùng tồn tại gây bệnh cho lươn. Các bệnh thường gặp ở lươn đó là bệnh sốt nóng, bệnh lở loét, nội ký sinh và bệnh nấm thuỷ mi.
Theo kỹ sư Đăng Hồng Đức, Trưởng bộ phận thuỷ sản Cty Liên doanh Bio thì đối với bệnh sốt nóng bà con nông dân cần giảm mật độ nuôi lươn, trong bồn cần thả ít bèo và nâng mực nước trong bồn lên nhằm hạ nhiệt độ nước, sau đó dùng Anti Shock liều 1 ký/ 1000m3 tạo đều trong bồn nuôi lươn.
Đối với bệnh lở loét, bà con có thể tắm lươn bằng Bio Green Cut liều 1 ppm (tức 1 lít/1000m3 nước ), sau đó trộn Bio Sultrim liều 5g/kg thức ăn và cho lươn ăn trong 5 ngày liền.
Đối với bệnh nội ký sinh cần phòng bệnh bằng Bio Green Cut liều 1 ppm (tức 1 lít/1000m3 nước) diệt mầm bệnh, ấu trùng các ký sinh trùng trước khi thay nước mới vào. Nếu lươn có bệnh trên thì có thể dùng Bio Benzol theo hướng dẫn trên bao bì sẽ đạt kết quả cao.
Nếu lươn bị bệnh nấm thuỷ mi, bà con tắm lươn bằng Bio Green Cut liều 1 ppm (tức 1 lít/1000m3nước), sau đó trộn Bio Oxocol liều 5g/kg thức ăn và cho ăn liên tục từ 3 đến 5 ngày sẽ trị được bệnh nấm thuỷ mi trên lươn.
Tuy lươn là đối tượng dễ nuôi, nhưng hầu hết giống đều đánh bắt từ thiên nhiên chưa được thuần hoá, do vậy khi nuôi lươn bà con nông dân cần áp dụng các giải pháp phòng bệnh ngay từ khi thả giống, đồng thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật nuôi lươn theo các yêu cầu như chọn giống khoẻ mạnh bằng cách tắm muối trước khi thả giống, luôn giữ môi trường nước sạch, định kỳ diệt khuẩn để loại bỏ mầm bệnh đồng thời chú ý đế chế độ thức ăn hợp lý, hy vọng đây sẽ là một trong số cách giúp bà con nông dân nuôi lươn thành công.
Theo angiang.gov.vn
Tags:
Kỹ Thuật
Một số phương pháp nuôi lươn đồng
Do lươn có tập tính sống chui rúc trong bùn đáy và đào hang để trú ẩn, đồng thời lươn cũng có thể bò đi mất nếu bờ ao không đủ cao. Do vậy vấn đề nuôi lươn trong các ao mương cần phải hết sức chú ý vấn đề này.
Nuôi trong các hồ cement hoặc chuồng nuôi heo cải tạo lại
Diện tích hồ nuôi có thể từ 4 - 6 hoặc 10 m2, tùy điều kiện cụ thể.
Thành hồ phải đảm bảo độ cao để lươn không bò ra ngoài được. Độ cao tối thiểu của thành hồ tính từ mặt bùn đáy trở lên phải cao hơn 2/3 chiều dài của lươn (ví dụ: lươn dài 50 cm có khả năng bò qua bờ có chiều cao 30 - 35 cm).
Sau khi đã sửa sang hồ xong nên đổ một lớp sình non dưới đáy hồ 20 - 25 cm (tốt nhất lấy sình đất thịt pha sét). Cũng có thể dùng chuối cây xếp thành một lớp dưới đáy rồi đổ sình phủ lên trên. Trên mặt nước có thể thả lục bình hoặc bèo tai tượng khoảng 1/3 diện tích.
Hồ nuôi lươn nên bố trí ống bọng để thay nước dễ dàng.
Hồ cement dùng để nuôi lươn bao gồm:
- Ống cấp nước (5 cm).
- Lớp sình 20 - 25 cm.
- Lớp nước 5 - 10 cm (tính từ mặt sình lên).
- Ống thoát nước (5 cm).
- Thành hồ bằng gạch xây, có gờ nhằm tránh cho lươn thoát ra ngoài.
Nuôi lươn trong các ao mương
Các ao mương nhỏ có thể tận dụng để nuôi lươn. Nhưng cần chú ý các vấn đề sau:
Cần phải vét hết lớp bùn đáy tới lớp đất dẻo, lớp bùn này có thể phơi ráo nước hoặc khô để sau này trả lại đáy ao.
Dùng cát đổ xuống đáy ao một lớp 5 - 10 cm. Tốt nhất trộn vôi với cát rồi lắng xuống đáy để sau này lươn không đào sâu được. Có thể trộn vôi với cát theo tỷ lệ 5 - 6 kg vôi trộn với 1m3 cát.
Sau khi trộn xong, láng khắp đáy hồ và đầm nén cho cứng. Bờ ao cũng phải lấp hết hang hốc và đầm cho cứng.
Đổ một lớp sình khoảng 20 - 30 cm, tốt nhất nên sử dụng bùn mới hoặc sử dụng lại bùn đáy mới vét lên đã được phơi khô.
Cần phải đắp một cù lao ở giữa ao, mương để hạn chế lươn đào hang xung quanh bờ. Diện tích cù lao thường chiếm khoảng 1/4 - 1/5 diện tích ao hồ. Nếu mương dài và nhỏ thì nên đắp cù lao ở một phía bờ mương hoặc giữa mương. Cù lao phải cao hơn mực nước 5 - 10 cm nhưng phải thấp hơn bờ ao 50 - 60 cm. Trên mặt cù lao có thể trồng cỏ hoặc các loại khoai môn nước.
Nuôi lươn trong hồ đất đắp có lót cao su
Chọn nơi đất cứng để đào hồ nuôi lươn. Thông thường chỉ nên đào sâu khoảng 0,3 - 0,5m, lấy đất này đắp lên thành bờ. Đáy và bờ phải được đầm nén cho kỹ.
Diện tích đào và đắp tùy theo điều kiện cụ thể, thông thường nên đào và đắp hồ có diện tích 10 – 12 m2.
Dùng cao su (loại dùng để phơi lúa) để lót toàn bộ đáy và thành hồ.
Hồ đất lót cao su nuôi lươn, gồm:
- Lớp cao su lót đáy và thành hồ đất.
- Lớp bùn.
- Cù lao.
- Phần đất đắp bờ.
- Mặt đất trước khi đào hồ.
- Lớp nước trong hồ 10 - 15cm.
Sau khi lót cao su xong, đổ một lớp sình 20 - 25 cm và đắp một cù lao (có thể đắp ở giữa hồ hoặc một phía nào đó của hồ). Cù lao phải đắp cao hơn mặt nước 5 - 10 cm và thấp hơn bờ khoảng 40 - 50 cm.
Sau khi hoàn tất việc lót cao su, đắp cù lao và tạo một lớp bùn đáy thì cấp nước vào. Mực nước trung bình 10 - 15 cm.
Thả giống lươn
Nguồn lươn giống hiện nay ở ĐBSCL chủ yếu được đánh bắt ở ngoài tự nhiên. Kích thước lươn giống bắt được dao động rất lớn và phụ thuộc vào mùa vụ. Thông thường lươn giống bắt vào tháng 8 - 10 theo phương pháp xúc mô có chất lượng cao hơn so với lươn đánh bắt bằng phương pháp đặt trúm, câu hoặc tát đìa. Lươn giống đánh bắt theo phương pháp xúc mô thường có kích thước đều (60 – 70 con/kg) và khỏe mạnh.
Khi thả lươn chúng ta nên chú ý không nên thả lươn quá lớn (100g/con) vì loại này khi đánh bắt đã bị vuốt cho gãy xương sống cho khỏi bò mất, do vậy lươn sẽ chết sau 7 - 10 ngày thả. Ngoài ra lươn được đánh bắt bằng mồi thuốc dân gian cũng không nên thả vì loại này cũng dễ chết sau khi thả vài ngày và thường chết rộ sau khi thả 10 - 15 ngày.
Nói tóm lại, lươn có kích thước lớn, lươn đánh bắt bằng mồi thuốc, lươn loại nhỏ ở các vựa thu mua chúng ta không nên thả vì loại này thường có tỷ lệ chết rất cao khi thả nuôi.
Mật độ thả: Mặc dù lươn có khả năng chịu đựng tương đối cao nhưng không nên thả quá dầy. Nếu thả mật độ cao sẽ dẫn đến tình trạng lươn lớn không đều. Trung bình thả 1,0 - 1,5 kg/m2 đáy hồ, ao.
Trước khi thả lươn cần xử lý qua nước muối 3 – 5 % trong 5 - 7 phút để phòng bệnh cho lươn.
Chế độ chăm sóc
-Thức ăn: Do lươn ăn rất tạp nên có thể sử dụng nhiều loại thức ăn khác nhau để nuôi. Tuy nhiên những loại thức ăn có nguồn gốc là động vật như tép, cá, nòng nọc, ruột gà, vịt... thường có tác dụng làm lươn lớn rất nhanh so với thức ăn có nguồn gốc thực vật như cám.
Chúng ta cũng có thể sử dụng các loại thức ăn cho gia cầm hiện nay để nuôi lươn hoặc tự phối chế thức ăn đơn giản phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để nuôi lươn vẫn có thể đem lại kết quả tốt như sau:
Cám nhuyễn: 64%
Bột cá lạt: 35%
ADE + bột gòn + khoáng: 1%
Trộn đều các thứ sau đó cho vào máy ép đùn thủ công để tạo thành thức ăn viên, phơi khô (viên thức ăn lớn hay nhỏ tùy theo kích thước của lươn).
Lượng thức ăn cho mỗi ngày chiếm 5 – 7 % trọng lượng thân và nên cho ăn 2 - 3 lần trong ngày. Không nên cho tất cả lượng thức ăn dồn vào một lần vì làm như vậy lươn ăn không hết, thức ăn phân hủy gây thối nước, lươn dễ bị bệnh. Thức ăn nên được rải đều (đặc biệt gần khu vực cù lao là nơi lươn trú ẩn) để lươn có cơ hội ăn được nhiều hơn.
- Quản lý hàng ngày: Cần phải giữ môi trường nước luôn sạch sẽ và mát. Trung bình 3 - 4 ngày thay nước 1 lần cho lươn.
Khi thời tiết nóng kéo dài cần phải có biện pháp che mát cho ao hồ nuôi hoặc dùng lục bình thả trên mặt hồ với diện tích khoảng 20 – 25 % mặt nước.
Khi trời mưa to cần kịp thời rút bớt nước đề phòng nước đầy tràn bờ lươn trốn mất.
Thường xuyên theo dõi để loại bỏ lươn chết (lươn bị bệnh hoặc sắp chết thường nằm trên mặt bùn đáy) tránh thối nước.
Theo NNVN
Tags:
Kỹ Thuật
Kỹ thuật sản xuất giống sò huyết
Ở nước ta, sò huyết phân bố dọc ven biển nhưng tập trung ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang. Sò huyết phân bố tự nhiên ở các bãi triều nông đến độ sâu 4m với thời gian phơi bãi từ 6-10 giờ/ngày đêm, có nền đáy là bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất hữu cơ, độ mặn từ 20-30‰. Nghề nuôi sò huyết bắt đầu từ năm 1990. Sản lượng khai thác khoảng 17.000-20.000 tấn, trong đó Kiên Giang có sản lượng lớn nhất cả nước. Tổng diện tích bãi triều đang sử dụng nuôi sò mới chỉ trên 2000 ha mặc dù diện tích tiềm năng có thể phát triển nuôi trong cả nước là khoảng 50.000 ha. Nguồn sò huyết phục vụ cho nuôi sò thương phẩm hoàn toàn từ khai thác tự nhiên, nguồn lợi này đang cạn kiệt nhanh chóng do nhu cầu tiêu thu trong nước và xuất khẩu ngày càng tăng. Vì vậy, chúng tôi xin giới thiệu quy trình kỹ thuật sản xuất nhân tạo giống sò huyết do Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III nghiên cứu và hoàn thiện.
1. Chuẩn bị cơ sở nuôi: Hệ thống sản xuất giống sò huyết gồm:
- 1 bể lọc 2 (m3)
- 1 bể chứa nước 20 (m3)
- 1 bể đẻ hình cầu, đáy trắng 1 (m3)
- 1 bể ương ấu trùng nổi 18 (m3)
- 1 bể ương ấu trùng đáy 90 (m3)
- 1 bể nuôi cấy tảo 12 (m3)
- 1 bể lọc 2 (m3)
- 1 bể chứa nước 20 (m3)
- 1 bể đẻ hình cầu, đáy trắng 1 (m3)
- 1 bể ương ấu trùng nổi 18 (m3)
- 1 bể ương ấu trùng đáy 90 (m3)
- 1 bể nuôi cấy tảo 12 (m3)
2. Tuyển chọn sò bố mẹ và nuôi vỗ thành thục
Sò bố mẹ phải có kích thước trên 25 mm theo chiều dài vỏ, tuyến sinh dục ở giai đoạn III,IV.
Nuôi sò bố mẹ trong bể xi măng, cho ăn 2 lần /ngày các loại tảo đơn bào Chaetoceos sp, Nanochloropsis sp, Platymonas sp., Isochrysis sp. với mật độ 20.000 tế bào/ml. Có thể bổ sung thức ăn tổng hợp, bột ngũ cốc, men bánh mì, tảo khô… Tiến hành sục khí và thay nước hàng ngày. Thời gian nuôi vỗ từ 2-5 ngày.
Sò bố mẹ phải có kích thước trên 25 mm theo chiều dài vỏ, tuyến sinh dục ở giai đoạn III,IV.
Nuôi sò bố mẹ trong bể xi măng, cho ăn 2 lần /ngày các loại tảo đơn bào Chaetoceos sp, Nanochloropsis sp, Platymonas sp., Isochrysis sp. với mật độ 20.000 tế bào/ml. Có thể bổ sung thức ăn tổng hợp, bột ngũ cốc, men bánh mì, tảo khô… Tiến hành sục khí và thay nước hàng ngày. Thời gian nuôi vỗ từ 2-5 ngày.
3. Kích thích phóng tin, đẻ trứng Phơi sò dưới nắng râm từ 120-240 phút, sau đó kích thích bằng dòng nước chảy mạnh và liên tục từ 30-180 phút. Kích thích đẻ trong bể đẻ 1m3 bằng Composite với đáy trắng. Quan sát thấy sò mở miệng và thò chân ra ngoài thì dừng kích thích.
4. Thu trứng
Nước biển qua xử lý cơ học và EDTA 10ppm cấp vào bể đẻ. Sau khi sò phóng tinh trứng và đẻ trứng khoảng 3-5 phút thì tiến hành chuyển trứng bằng dòng tự chảy qua lưới lọc 100 µm vào bể ương với miệng ống hút trứng cách đáy bể đẻ 15-25 cm nhằm loại bỏ chất thải của sò bố mẹ lơ lửng trong nước và trứng non, chất cặn bã lắng đáy. Đồng thời vừa hút san trứng vừa cấp thêm nước vào bể đẻ để kích thích sò tiếp tục đẻ trứng và làm loãng mật độ trứng, tinh trùng nhằm tránh hiện tượng đa tinh trùng, đóng vón trứng do mật độ quá cao.
Nước biển qua xử lý cơ học và EDTA 10ppm cấp vào bể đẻ. Sau khi sò phóng tinh trứng và đẻ trứng khoảng 3-5 phút thì tiến hành chuyển trứng bằng dòng tự chảy qua lưới lọc 100 µm vào bể ương với miệng ống hút trứng cách đáy bể đẻ 15-25 cm nhằm loại bỏ chất thải của sò bố mẹ lơ lửng trong nước và trứng non, chất cặn bã lắng đáy. Đồng thời vừa hút san trứng vừa cấp thêm nước vào bể đẻ để kích thích sò tiếp tục đẻ trứng và làm loãng mật độ trứng, tinh trùng nhằm tránh hiện tượng đa tinh trùng, đóng vón trứng do mật độ quá cao.
5. Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng nổi - Tiêu chuẩn về môi trường nước trong bể ương ấu trùng: nước trong sạch, không nhiễm bẩn, xử lý EDTA 10ppm, pH 7,5-8,5, độ mặn: 20-25‰.
- Quản lý và chăm sóc ấu trùng nổi Veliger
Mật độ ương: 2 con/ml
Thức ăn: tảo đơn bào Nanochloropsis sp. mật độ 3000 tế bào/ml. Cho ăn 2 lần/ngày (8h và 14h). Sử dụng thức ăn tổng hợp, men bánh mì, tảo khô khi thiếu tảo.
Siphon đáy và thay 30-50% nước 1 lần/ngày
Quan sát hoạt động và dinh dưỡng của ấu trùng hàng ngày qua kính hiển vi. Điều chỉnh lượng thức ăn thông qua quan sát lượng thức ăn có trong ruột ấu trùng.
Đo kích thước ấu trùng để theo dõi sự sinh trưởng.
Thuần hoá độ mặn thấp dần xuống 20‰ vào cuối giai đoạn sống trôi nổi (ấu trùng có điểm mắt).
- Chuẩn bị chất đáy và chuyển ấu trùng
Bùn non lọc sạch các loài địch hại như ốc xoắn, các tạp chất.
Ngâm thuốc tím 10ppm và rửa sạch trước khi đưa vào bể.
Chuẩn bị bể ương ấu trùng sống đáy: cho bùn vào bể, dày 2-5 cm
Cấp nước có độ mặn 20‰ vào bể trước khi san ấu trùng 4-7 ngày.
Siphon đáy bể ấu trùng nổi.
Lọc ấu trùng bằng lưới 100 µm chuyển sang bể đã chuẩn bị sẵn chất đáy bùn.
- Quản lý và chăm sóc ấu trùng nổi Veliger
Mật độ ương: 2 con/ml
Thức ăn: tảo đơn bào Nanochloropsis sp. mật độ 3000 tế bào/ml. Cho ăn 2 lần/ngày (8h và 14h). Sử dụng thức ăn tổng hợp, men bánh mì, tảo khô khi thiếu tảo.
Siphon đáy và thay 30-50% nước 1 lần/ngày
Quan sát hoạt động và dinh dưỡng của ấu trùng hàng ngày qua kính hiển vi. Điều chỉnh lượng thức ăn thông qua quan sát lượng thức ăn có trong ruột ấu trùng.
Đo kích thước ấu trùng để theo dõi sự sinh trưởng.
Thuần hoá độ mặn thấp dần xuống 20‰ vào cuối giai đoạn sống trôi nổi (ấu trùng có điểm mắt).
- Chuẩn bị chất đáy và chuyển ấu trùng
Bùn non lọc sạch các loài địch hại như ốc xoắn, các tạp chất.
Ngâm thuốc tím 10ppm và rửa sạch trước khi đưa vào bể.
Chuẩn bị bể ương ấu trùng sống đáy: cho bùn vào bể, dày 2-5 cm
Cấp nước có độ mặn 20‰ vào bể trước khi san ấu trùng 4-7 ngày.
Siphon đáy bể ấu trùng nổi.
Lọc ấu trùng bằng lưới 100 µm chuyển sang bể đã chuẩn bị sẵn chất đáy bùn.
6. Kỹ thuật ương nuôi ấu trùng bò và sò con
Kiểm tra số lượng ấu trùng biến thái chuyển xuống sống đáy, đáy bùn và ấu trùng còn sống trôi nổi.
Thay nước hàng ngày từ 40-60 % thể tích bể/ngày.
Sục khí 24/24h.
Hạn chế tối đa các thao tác gây sục bùn đáy.
San thưa đảm bảo mật độ ương giống 6000-8000 con/m2 khi giống đạt kích thước > 2mm.
Cho ăn hỗn hợp tảo đơn bào Chaetoceros sp., Isochrysis sp., Platymonas sp., Nanochloropsis sp. với mật độ 10.000 tế bào/ml, ngày 2 lần. Sử dụng thức ăn tổng hợp, bột ngũ cốc, tảo khô… những khi thiếu tảo.
Kiểm tra số lượng ấu trùng biến thái chuyển xuống sống đáy, đáy bùn và ấu trùng còn sống trôi nổi.
Thay nước hàng ngày từ 40-60 % thể tích bể/ngày.
Sục khí 24/24h.
Hạn chế tối đa các thao tác gây sục bùn đáy.
San thưa đảm bảo mật độ ương giống 6000-8000 con/m2 khi giống đạt kích thước > 2mm.
Cho ăn hỗn hợp tảo đơn bào Chaetoceros sp., Isochrysis sp., Platymonas sp., Nanochloropsis sp. với mật độ 10.000 tế bào/ml, ngày 2 lần. Sử dụng thức ăn tổng hợp, bột ngũ cốc, tảo khô… những khi thiếu tảo.
7. Thu sò giống
Thu hoạch sò giống khi đạt kích thước 5-7 mm.
Chuẩn bị dụng cụ thu hoạch: thùng, chậu nhựa dung tích 15l, 20l, có đường kính miệng rộng, lưới động vật phù du.
Phương pháp thu hoạch: dùng ống xiphong hút bùn và sò con dưới đáy bể, lọc bùn qua sàng lưới giữ lại sò con.
Xác định trọng lượng, kích thước trung bình của sò con thu hoạch.
Thu hoạch sò giống khi đạt kích thước 5-7 mm.
Chuẩn bị dụng cụ thu hoạch: thùng, chậu nhựa dung tích 15l, 20l, có đường kính miệng rộng, lưới động vật phù du.
Phương pháp thu hoạch: dùng ống xiphong hút bùn và sò con dưới đáy bể, lọc bùn qua sàng lưới giữ lại sò con.
Xác định trọng lượng, kích thước trung bình của sò con thu hoạch.
8. Vận chuyển
Vận chuyển khô, để ẩm (thời gian vận chuyển không quá 2 giờ) hoặc đóng trong túi nilon bơm ôxy (thời gian vận chuyển trên 2 giờ)
Vận chuyển khô, để ẩm (thời gian vận chuyển không quá 2 giờ) hoặc đóng trong túi nilon bơm ôxy (thời gian vận chuyển trên 2 giờ)
9. Nuôi cấy tảo đơn bào làm thức ăn cho sò huyết - Phân lập giống: giống được phân lập bằng 2 phương pháp chính:
+ Phương pháp pha loãng: mẫu tảo bị lẫn tạp được pha loãng bằng nước nuôi cấy sao cho chỉ có một hoặc vài tế bào trong ống nghiệm. Sau đó lặp lại với những ống nghiệm có tảo cần lấy phát triển nhiều và tốt nhất.
+ Phương pháp phân lập trên môi trường thạch: cấy tảo trên môi trường thạch 1,5%, sau đó để các đãi thạch dưới ánh sáng 2 đèn neon, khi thấy các khuẩn lạc xuất hiện thì kiểm tra bằng kính hiển vi đề chọn khuẩn lạc tốt nhất và chuyển sang môi trường lỏng. Phương pháp này rất có hiệu quả đối với các loài tảo xanh.
- Môi trường dinh dưỡng: đối với từng nhóm tảo khác nhau thì sử dụng các môi trường nuôi khác nhau. Các loài tảo đơn bào là thức ăn thích hợp cho sò huyết thuộc 3 nhóm tảo chính là tảo xanh, tảo khuê, tảo vàng.
Môi trường dinh dưỡng sử dụng cho nuôi sinh khối các loài tảo đơn bào
+ Phương pháp pha loãng: mẫu tảo bị lẫn tạp được pha loãng bằng nước nuôi cấy sao cho chỉ có một hoặc vài tế bào trong ống nghiệm. Sau đó lặp lại với những ống nghiệm có tảo cần lấy phát triển nhiều và tốt nhất.
+ Phương pháp phân lập trên môi trường thạch: cấy tảo trên môi trường thạch 1,5%, sau đó để các đãi thạch dưới ánh sáng 2 đèn neon, khi thấy các khuẩn lạc xuất hiện thì kiểm tra bằng kính hiển vi đề chọn khuẩn lạc tốt nhất và chuyển sang môi trường lỏng. Phương pháp này rất có hiệu quả đối với các loài tảo xanh.
- Môi trường dinh dưỡng: đối với từng nhóm tảo khác nhau thì sử dụng các môi trường nuôi khác nhau. Các loài tảo đơn bào là thức ăn thích hợp cho sò huyết thuộc 3 nhóm tảo chính là tảo xanh, tảo khuê, tảo vàng.
Môi trường dinh dưỡng sử dụng cho nuôi sinh khối các loài tảo đơn bào
Hoá chât | Tảo xanh | Tảo khuê | Tảo vàng |
Đạm | 100 | 70 | 30 |
Lân | 10 | 6 | 6 |
Urê | 10 | 4 | 5 |
Axit citric | 15 | 7 | 7 |
Fe3+ | 4 | 2 | 1 |
Vitamin B1, B12 | 0,05-0,1 | ||
Silic 5 | 5 |
Tảo xanh bao gồm các loài tảo: nanpchloris atomus, Chlorella sp., Dunaliella salina, platymonas sp., tetraselmis suecica, heterogloea sp., nanochloropsis oculata. Tảo khuê gồm các loài tảo Chaetoceros calcitrans, chaetoceros gracilis, Chaetoceros muelleri, navicula sp. - Điều kiện nuôi:
+ Trong phòng: tảo được nuôi trong ống nghiệm, bình tam giác (125ml, 500ml, 1000ml), bình 10l, 20l dưới ánh sáng đèn neon 40W, nhiệt độ 24-270C, S‰: 27-32‰.
+ Ngoài trời: tảo được nuôi trong thùng nhựa trắng 160l, các bể ciment 1m3, dưới ánh sáng và nhiệt độ tự nhiên.
Môi trường tối ưu để nuôi các loại tảo như sau:
+ Trong phòng: tảo được nuôi trong ống nghiệm, bình tam giác (125ml, 500ml, 1000ml), bình 10l, 20l dưới ánh sáng đèn neon 40W, nhiệt độ 24-270C, S‰: 27-32‰.
+ Ngoài trời: tảo được nuôi trong thùng nhựa trắng 160l, các bể ciment 1m3, dưới ánh sáng và nhiệt độ tự nhiên.
Môi trường tối ưu để nuôi các loại tảo như sau:
ĐK nuôi | Cường độ ánh sáng (lux) | Nhiệt độ (0C) | Độ mặn (‰) | pH |
Tên giống | ||||
Platymonas | 5000-10000 | 25-28 | 30-35 | 7.5-8.5 |
Dunaliella | 2000-6000 | 30-40 | 25-28 | 7.5-8.5 |
Nanno | 1000-2000 | 25-30 | 30-32 | 7.5-8.5 |
Chlorella | 1000-2000 | 25-28 | 30-32 | 6.0-8.0 |
Chaetoceros | 6000-8000 | 25-35 | 20-25 | 8.0-9.0 |
Thu Hằng
Tags:
Kỹ Thuật
Xử lý nước trước khi đưa vào nuôi thủy sản
Nước dùng trong nuôi trồng thủy sản thường chứa nhiều loại tác nhân gây bệnh. Trước khi sử dụng để nuôi trồng thủy sản, cần xử lý nước, tiêu diệt tác nhân gây bệnh.
Phương pháp cơ học: Đưa nước vào ao chứa để lắng lọc, hay cho nước chảy qua các bể lọc xuôi hoặc ngược, có thể loại bỏ các chất vẩn hữu cơ lơ lửng có trong nước, bám trên các chất vẩn đó là nhiều tác nhân khác nhau thuộc vi khuẩn, nấm, nguyên sinh động vật. Đây là hình thức lọc thô, nên không thể tiêu diệt triệt để các loại tác nhân gây bệnh… Cũng có thể dùng dụng cụ siêu lọc (Ultrafiltration) để lọc nước và khi nước đã lọc qua màng lọc có kích thước là 0,2µm, thì 100% vi khuẩn sẽ bị loại bỏ. Phương pháp lọc này thường rất đắt và công suất hoạt động của nó cũng khó đáp ứng nhu cầu nước dùng trong trang trại nuôi thủy sản với quy mô lớn. Mặt khác, nước đã bị loại bỏ 100% vi sinh vật không phải là nước tối ưu dùng cho nuôi trồng thủy sản.
Phương pháp vật lý: Thực chất của phương pháp vật lý là dùng đèn cực tím để sát trùng nước. Đèn cực tím ở bước sóng từ 240-280nm, có thể tiệt trùng nước biển dùng trong nuôi trồng thủy sản nhưng không làm cho nước hoàn toàn vô trùng, tia cực tím có tác dụng kìm hãm khả năng sinh sản của vi khuẩn và nấm. Do đó, dùng đèn cực tím để kìm hãm vi khuẩn và nấm tốt hơn so với dùng các loại hóa chất diệt khuẩn và diệt nấm. Hiệu quả tiệt trùng của tia cực tím trong nước phụ thuộc rất lớn vào các hạt vật chất hữu cơ lơ lửng có trong nước và màu sắc tự nhiên của nước biển. Người ta khuyến cáo rằng có thể dùng phương pháp lọc cơ học trước khi sát trùng nước bằng đèn cực tím thì hiệu quả sẽ cao hơn.
Phương pháp hóa học: Đây là phương pháp dùng các loại thuốc sát trùng khác nhau cho vào nguồn nước để tiêu diệt mầm bệnh thông qua các phản ứng oxy hóa - khử, như dùng Iodine, chlorine, thuốc tím, xanh methylen, formol…
Phương pháp này có tác dụng diệt trùng khá tốt nhưng dư lượng của hóa chất có thể ảnh hưởng xấu tới điều kiện môi trường và sức khỏe vật nuôi. Ngoài ra, các chất diệt trùng có thể tiêu diệt luôn cả hệ vi sinh vật có lợi trong nguồn nước, diệt tảo phù du và cũng ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe con người, đặc biệt là người đang làm việc trực tiếp trong nuôi trồng thủy sản.
Phương pháp sinh học: Phương pháp này thường áp dụng trong các hệ thống nuôi tuần hoàn và bán tuần hoàn, nước đã sử dụng có thể được làm sạch nhờ sự tồn tại và phát triển của một số vi sinh vật (thường là vi khuẩn) có lợi như Nitrobacter… có khả năng sử dụng nitơ thừa và cạnh tranh chiếm chỗ, kìm hãm sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh trong một tồn tại trong môi trường nước, trước khi nguồn nước này được tái sử dụng.
Phương pháp sinh thái: Dựa vào nhu cầu sinh thái của từng loại tác nhân gây bệnh, ta có thể sử dụng phương pháp sinh thái để tiêu diệt chúng. Ví dụ, trong trại sản xuất tôm sú giống, để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh phát sáng (vibrrio harvyei, V.parahaemolyticus…) có thể giảm độ mặn xuống <20‰ bắt đầu vào cuối giai đoạn mysis, đầu giai đoạn postlarvae. Ở độ mặn thấp, một số loài vi khuẩn gây bệnh phát sáng có thể bị kìm hãm phát triển, nên khi mật độ vi khuẩn thấp, bệnh sẽ không xảy ra. Trong các ao chứa nước dùng cho nuôi tôm sú thương phẩm, nếu ta dùng hóa chất (như neguvon) diệt hết giáp xác hoang dã là các sinh vật mang virus gây bệnh đốm trắng (WSBV) của tôm sú, sau 4-5 ngày ta có thể yên tâm rằng, trong nguồn nước cấp vào ao sẽ không có virus đốm trắng, vì ở trạng thái tự do, WSBV không tồn tại được lâu.
(Theo Trung tâm Giống và KTTS Phú Yên)
Tags:
Kỹ Thuật
Kỹ thuật nuôi cá rô đầu vuông
1. Chọn và cải tạo ao nuôi: Chọn ao nuôi: Ao nuôi cá rô phải có diện tích tối thiểu trên 200m2. Độ sâu mực nước chết từ 1,6-2m. Xung quanh bờ ao phải thoáng, không có bóng cây, ao nuôi cá rô phải chủ động được nguồn nước cấp và nguồn nước thải không ảnh hưởng đến các hộ nuôi xung quanh cũng như sinh hoạt của người dân. Cải tạo ao nuôi: - Tác cạn nước trong ao nuôi, bắt hết cá tạp. - Rải vôi nông nghiệp với lượng 7-10kg/100m2, phơi đáy ao tử 3-5 ngày - Bơm nước mới cho ao với mức nước 5 tấc. - Gây thức ăn tự nhiên cho ao: Đậu nành hòa vào nước, tạc xuống ao với lượng 3-5 kg/100m2 hoặc có thể dùng phân hóa học N-P-K với lượng 1-2 kg/100m2. 2 ngày sau tiến hành bơm nước đủ cho ao nuôi. 2. Chọn và thả giống nuôi: Chọn giống: Cỡ cá rô giống thả thích hợp nhất là từ 150-200 con/kg, cá giống phải đồng cỡ, không dị hình, dị tật, cá bơi lội nhanh nhẹn, màu sắc tươi sáng. Thả giống: Thả giống cá rô phải thả vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát, để bao cá giống xuống ao ngâm 10-20 phút rồi mở miệng bao cho cá ra từ từ. 3. Chăm sóc và quản lý: Chăm sóc: Thức ăn cho cá rô là thức ăn ăn công nghiệp hoặc thức ăn chế biến - Thức ăn công nghiệp: Có độ đạm từ 35-28 tùy giai đoạn cá nuôi mà cho thức ăn có độ đạm khác nhau. + Cá giai đoạn mới thả đến 1 tháng tuổi: Cho ăn 35 độ đạm, khẩu phần ăn 5-7% trọng lượng cơ thể + Cá giai đoạn 1 tháng đến 2 tháng tuổi: Cho ăn 30 độ đạm, khẩu phần ăn 4-6 % trọng lượng cơ thể + Cá giai đoạn 2 tháng đến thu hoạch: Cho ăn 28 độ đạm, khẩu phần cho ăn 2-3 % trọng lượng cơ thể. - Thức ăn chế biến: Gồm 30% bột cá hoặc cá tạp xay nhuyễn, cám tấm 70%. Trộn 3 loại này lại nấu chín cho cá ăn, khẩu phần cho ăn tương tự như cho cá ăn bằng thức ăn công nghiệp. Quản lý: Định kỳ 7-10 thay nước cho ao nuôi một lần, lượng nước thay từ 20-40 % lượng nước trong ao. 4. Phòng và trị một số bệnh thường gặp trên cá rô: a. Bệnh nấm thủy my: Bệnh này thường gặp ở cá giai đoạn mới thả giống, dấu hiệu bệnh là trên da cá có các vết trắng nhỏ như bông gòn, cá bơi lội lờ đờ. Trị bệnh bằng cách dùng Iodine hòa vào nước tạc đều xuống ao. Trên thị trường có rất nhiều loại thuốc có thành phần là Iodine, trên bao bì có hướng dẫn liều dùng cụ thể cho từng giai đoạn cá nuôi . b. Bệnh lỡ loét: Bệnh này do vi khuẩn gây ra do đó để trị bệnh phải dùng kháng sinh.Có thể dùng Sunfa hoặc Cotrim để trị bệnh. Trên thị trường có rất nhiều loại thuốc có thành phần Sunfa và Cotrim, trên bao bì có hướng dẫn liều dùng cụ thể cho từng giai đoạn cá nuôi. Ks. Ngô Tuấn Tính - Trung tâm Khuyến nông An Giang |
Tags:
Kỹ Thuật
Yên Bái: Kỹ thuật phòng, chống rét cho các loài thủy sản
Cập nhật lúc: 11:41 AM, 21/01/2011
Hiện nay tình hình rét đậm, rét hại kéo dài làm thay đổi điều kiện sống của các loài động vật thủy sản như: tôm, cá, ba ba...
Theo dự báo, trong những ngày tới trời vẫn còn tiếp tục rét đậm, rét hại. Để tránh rủi ro cho người chăn nuôi, Chi cục Thủy sản Yên Bái khuyến cáo với bà con một số biện pháp phòng, chống rét cho động vật thủy sản như sau:
Bờ ao phải chắc chắn, không để bờ ao rò rỉ mất nước làm ao cạn, phải luôn giữ mực nước trong ao trên 1,5m, tốt nhất là từ 2 - 2,5m, bờ ao phía đông nên để thoáng, không để cây cối che khuất ánh sáng mặt trời. Ao nuôi giữ cá qua đông trên mặt ao nên thả từ 1/3 đến 2/3 bèo tây để giữ ấm và tránh được gió cho ao nuôi động vật thủy sản. Trong những ngày rét đậm, tốt nhất dùng nilon quây bạt, lá cọ che chiều hướng gió thổi vào ao để giảm tối đa lượng gió thổi vào ao nuôi.
Động vật thủy sản là loài động vật biến nhiệt, máu lạnh, nhiệt độ cơ thể thay đổi theo nhiệt độ môi trường ao nuôi nên khi nhiệt độ xuống dưới 1800C cá sẽ kén ăn, dưới 150C cá ngừng ăn, dưới 100C cá tìm nơi tránh rét, bà con chú ý theo dõi nhiệt độ chăm sóc ao nuôi cho tốt, không bón phân hữu cơ xuống ao trong những ngày thời tiết rét đậm, rét hại kéo dài để đảm bảo môi trường trong sạch, tránh hiện tượng nấm thủy mi phát triển gây bùng phát trong ao trú đông. Trong suốt thời gian trú đông, tuyệt đối không được dùng lưới, các loại phương tiện đánh bắt cá, tránh cá bị xây xát dẫn đến bị nhiễm bệnh và chết.
Đối với cá Chim trắng và cá Rô phi đơn tính là đối tượng chịu rét kém bà con lưu ý nếu ao nước thấp không dâng được mực nước trong ao, nên chủ động đánh bắt để xuất bán. Trong những ngày thời tiết ấm áp nhiệt độ trên 150C, phải tranh thủ cho cá ăn vào thời điểm từ 10 giờ đến 14 giờ, lượng thức ăn cho cá ăn bằng 1% trọng lượng thân cá.
Trên đây là một số biện pháp phòng, chống rét cho động vật thủy sản trong những ngày rét đậm, rét hại kéo dài, Chi cục Thủy sản Yên Bái khuyến cáo để bà con giảm tối đa những thiệt hại trong chăn nuôi.
Nguyễn Anh Tuấn
Theo Báo Yên Bái, 14/01/2011